Với nhiều người Việt, sau giao thừa hay những ngày đầu năm lên chùa thắp nhang, xin lộc có khi chỉ như một thói quen, không hẳn là tâm linh. Hoặc đơn giản hơn, chỉ để vãn cảnh trong không gian thanh tịnh. Nhưng ở đó, quanh năm suốt tháng, không đợi ngày Tết tôi thường gặp những người đàn bà phúc phận khác nhau và ranh giới giữa họ đôi khi chỉ là một bước chân qua cửa…
Thỉnh thoảng khi lên chùa, tôi thường gặp những chiếc xe hơi đời mời chạy thẳng vào trong sân, bước xuống xe là những chủ nhân trung niên, phục trang không cần đứng cạnh những chiếc xe sang cũng đủ biết đời sống vật chất của họ rất thong thả. Họ thường là những “đại thí chủ” của nhà chùa, nhiệt tình đóng góp khá mạnh tay các khoản “tịnh tài” ủng hộ nhà chùa trong các hoạt động, từ tu bổ, xây sửa lại chùa, đúc chuông tô tượng đến hàng loạt các chuyện lớn nhỏ khác của nhà chùa.
Họ có cuộc sống vật chất đã có thể gọi là tạm đủ, để chỉ còn chuyên chú đời sống tâm linh của mình. Thường khi đến chùa họ lưu lại khá lâu, có khi dùng cơm chay chùa, trong niềm nở thân tình.
Thỉnh thoảng lên chùa, tôi có thấy những người phụ nữ vội vàng đến, một mình có, với con cháu, chiếc nón để vội bên hàng hiên chùa, cầu khấn với vẻ mặt rất thành tâm cùng những bó nhang to cháy khói mù mịt, vái lạy, không quên chỉ bảo mấy đứa nhỏ đi cùng bi bô khấn lạy, rồi quày quả đội nón đi.
Và có những người đàn bà túc trực trước cổng tam quan nhưng ít khi lên chánh điện. Những người đàn bà không liên quan gì đến nhau, nhưng giống nhau đến lạ ở chân dung nhận diện: luôn đội nón, luôn mặc áo khoác dù trời mưa hay nắng, luôn có một cái gì đó bán được trước mặt, luôn chắp tay xá vọng vô chánh điện chứ hiếm khi vào trong lễ Phật, dù ngồi ở chùa mỗi ngày. Họ luôn ngồi quanh các cổng, lối vào của khách thập phương đến chùa. Những người đàn bà chỉ ở trước cổng chùa, thường là những người đàn bà chịu thương, chịu khó, chịu khổ.
Tôi nhớ những người đàn bà bán bánh trái, đồ lưu niệm trước cổng Sùng Hưng cổ tự ở Dương Đông, Phú Quốc nhiều năm trước. Ở đó có cô gái tật nguyền, không biết bẩm sinh hay sau một cơn sốt bại liệt. Cô ngồi đó với cây đàn bầu và mẹt hàng trước mặt, thỉnh thoảng lại cầm lấy đàn và chơi cứ như cho mình, không phải vì muốn bán hàng. Một vẻ điềm đạm, an nhiên lạ lùng, khác xa cái khốn khổ thân xác cô đang mang, đến mức một người chuyên đi hỏi chuyện người khác như tôi cũng thấy sẽ thiếu tôn trọng cô nếu hỏi vì sao. Ngôi cổ tự nằm trên đỉnh núi thường thanh vắng này chắc cũng chẳng mang lại nhiều thu nhập cho những người phụ nữ kiếm sống ở đây nhưng tuyệt nhiên không có cái cảnh ì xèo mua bán như một số chùa ở phố thị mỗi khi khách du tìm đến.
Tôi cũng thường đi chùa đầu năm và gặp những bà già bán lộc trầu. Những bà già có dáng ngồi đầu gối nhiều khi cao gần ngang mặt, bên cạnh những đọt trầu mới hái, mới rưới nước, xanh tươi mơn mởn mời gọi khách du Xuân. Năm nào cũng vậy, dù tôi không tin vào sự may mắn, nhưng vẫn luôn mua. Như bà già vẫn hay ngồi trước cổng chùa Sơn Trà, Đà Nẵng. Tôi không quên được hình ảnh bà móm mém ngồi bới cơm trắng ăn ngày mùng Một trong khi đợi khách bên cạnh cái mẹt đầy những lá trầu xanh. Năm nay bà có còn đi chùa để bán trầu hay không…?
Tại sao thế, những người đàn bà ít khi lên chánh điện, túc trực trước cổng tam quan thường là người nghèo, thậm chí nghèo rớt? Những phận người xui rủi may mắn gì cũng hay tìm đến những niềm tin tâm linh, nhưng cổng chùa lại là nơi dễ được người ta gửi gắm và cả trút bỏ những muộn phiền kinh khủng nhất của đời mình.
Thỉnh thoảng, tôi đến một ngôi chùa nhỏ ở Sài Gòn, nơi nhận nuôi các em mồ côi, bị bỏ rơi để thăm chúng. Lũ con nít thấy người lớn đến là cứ níu chặt lấy không chịu rời, không đòi quà, không màng ăn, chỉ đòi bế, đòi ẵm bồng, dù chúng có bảo mẫu chăm sóc rất tử tế. Thì ra đám trẻ mồ côi, trí óc non nớt chưa kịp hiểu chuyện gì ở đời, nhưng trong phản xạ chúng cũng đã vô thức hiểu được một điều gì đó không may chực sẵn trước cuộc đời chúng. Những người xuất gia ở chùa này thường bị mất ngủ ban khuya. Cứ nửa đêm nghe tiếng con nít khóc hay tiếng gõ cửa, tiếng chuông cổng reo, tiếng chó sủa trong con hẻm nhỏ là họ lại lật đật bật dậy. Vì y như rằng khi ra cổng sẽ thấy một hài nhi nào đó đang khóc hay mơ ngủ, ngọ nguậy chép miệng tìm vú mẹ nằm chơ vơ bên cổng chùa. Dì phụ trách tiếp nhận vật phẩm ủng hộ của bá tánh gửi phụ giúp chùa nuôi trẻ thường nói một cách hài hước rằng, các bà mẹ bỏ con ấy cũng rất biết “đặt niềm tin”. Thấy chùa chăm sóc trẻ tử tế, sạch sẽ nên mới “chọn mặt gửi vàng” mà bỏ con! Cả người nói lẫn người nghe đều cười nhẹ, mà nghe đau.
Những người phụ nữ, trong cùng cực của sự đau khổ hay hoang mang, bấn loạn, đã tìm đến cổng chùa để trút bỏ những nỗi niềm, những sai lầm nhất thời lúc ấy của mình, dù có thể từ đó đến hết đời mình, họ sẽ không thể quên được khoảnh khắc ấy, như một vết thương hằn sâu khó lành.
Một đúc kết cho riêng tôi: những người đàn bà vào trong chùa, thường là những người đàn bà may mắn hơn những người chỉ quanh quẩn ở cổng chùa. Những số phận không may, dù là vất vả mưu sinh hay mặc cảm tội lỗi thì bước chân họ dường như chỉ dừng lại ở đó.
Năm mới rồi, tôi mong những người phụ nữ khi đến trước cổng chùa luôn may mắn hoặc đủ nghị lực để đối diện, để buông bỏ mà bước tiếp. Chốn thiền môn không phải là điểm cuối cùng của kiếp nhân sinh…
Minh Minh (Phụ Nữ Ngày Nay)