Nhiều người chủ quan cho rằng các bệnh về xương khớp không gây nguy hiểm đến tính mạng. Thực tế, chúng đang âm thầm tàn phá sức khỏe, tinh thần và chất lượng cuộc sống của người bệnh một cách nghiêm trọng.
Bài viết này thuộc chương trình dài hạn phi lợi nhuận “Chăm Sóc Sức Khỏe Việt” do Cục Y Tế Dự Phòng, Bộ Y Tế và Davipharm, Adamed triển khai, chung tay phòng chống các bệnh không lây nhiễm (BKLN) thường gặp như ung thư, cơ xương khớp, sức khỏe tâm thần, tiểu đường, huyết áp,… nhằm nâng cao chất lượng sống cho người dân Việt Nam.
Người dân được đăng ký tầm soát các bệnh cơ xương khớp miễn phí trong chương trình Tầm Soát 151 thuộc dự án Chăm Sóc Sức Khỏe Việt do Davipharm, Adamed tài trợ
Bệnh lý cơ xương khớp: là bệnh của hệ thống cơ, xương và khớp, thường được biểu hiện bằng các triệu chứng như đau, sưng khớp, hạn chế vận động, yếu cơ, đau cơ hay các biến dạng xương… Để càng lâu, việc điều trị bệnh xương khớp càng tốn kém và mất rất nhiều thời gian.
Bệnh cơ xương khớp – Nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế
Các yếu tố gây bệnh:
• Các yếu tố không thay đổi được như: tuổi, giới tính, di truyền. Tuổi cao làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như thoái hóa khớp, loãng xương.
• Về giới tính và hormon: Nữ giới có xu hướng mắc một số bệnh nhiều hơn nam như viêm khớp dạng thấp, lupus, xơ cứng bì, thoái hóa khớp. Bệnh gút, nhóm bệnh lý cột sống huyết thanh âm tính (nhóm bệnh viêm đốt sống, viêm khớp có liên quan đến nhiều cơ quan) gặp ở nam nhiều hơn nữ.
• Các yếu tố di truyền bẩm sinh: Một số người sinh ra với dị dạng hoặc sụn khớp bị lỗi, có thể làm tăng nguy cơ thoái hóa khớp. Người mang gen HLA – B27 có nguy cơ mắc các bệnh lý cột sống huyết thanh âm tính.
• Các yếu tố có thể thay đổi/can thiệp được như: bệnh béo phì (trọng lượng cơ thể nhiều tạo sức ép lên khớp làm tăng nguy cơ thoái hóa khớp); các công việc căng thẳng lặp đi lặp lại có thể dẫn tới thoái hóa khớp hay viêm gân; sinh hoạt, làm việc sai tư thế có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như thoái hóa khớp, gây gù vẹo cột sống, đau do co cứng cơ; chế độ dinh dưỡng không lành mạnh như ăn nhiều đạm làm tăng nguy cơ mắc bệnh gút.
Bệnh cơ xương khớp để lại nhiều hậu quả nặng nề nên người dân đừng chủ quan
Hậu quả nặng nề của các bệnh cơ xương khớp:
• Trên thế giới, cứ 30 giây thì có một người bị gãy xương do loãng xương. Dự đoán đến năm 2050, các nước châu Á, trong đó có nước ta sẽ có 50% các trường hợp tàn phế hoặc bị đe dọa đến tính mạng do gãy khớp háng vì loãng xương gây ra.
• Thoái hóa khớp có thể dẫn đến sụn khớp bị phá hủy hoàn toàn và đầu xương bị tổn hại nghiêm trọng, người bệnh đứng trước nguy cơ phải thay khớp nhân tạo để có thể duy trì khả năng vận động.
• Viêm khớp dạng thấp có thể để lại di chứng biến dạng khớp bị viêm, co quắp các ngón tay, hạn chế chức năng vận động, teo cơ và có thể bị tàn phế (khoảng 10 – 15%)…
• Cùng rất nhiều bệnh lý cơ xương khớp mà hậu quả nặng nề nhất là gây tàn phế cho người bệnh.
Các tiến bộ trong điều trị bệnh cơ xương khớp:
Điều trị nội khoa:
• Các thuốc chống viêm không steroid: Các thuốc mới dựa trên cơ chế ức chế chọn lọc COX-2 giảm thiểu tác dụng phụ trên thận và đường tiêu hoá (etoricoxib, celecoxib…)
• Các thuốc chống thoái hoá khớp tác dụng chậm có khả năng tái lập cân bằng chuyển hoá sụn khớp, ít tác dụng không mong muốn, có thể dùng kéo dài, hiệu quả tốt (glucosamin, diacerein). Sử dụng liệu pháp bổ sung chất nhầy dịch khớp bằng cách tiêm acid hyaluronic nội khớp trong điều trị thoái hóa khớp.
• Điều trị thoái hoá khớp gối bằng liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu, tế bào gốc mô mỡ tự thân.
• Các thuốc sinh học trong điều trị bệnh lý khớp viêm (viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vảy nến, lupus ban đỏ hệ thống) như thuốc ức chế yếu tố hoại tử u TNF-alpha, ức chế IL 6 cho kết quả khả quan, dung nạp tốt, song giá tiền còn cao.
Điều trị ngoại khoa: Nội soi khớp đạt hiệu quả tốt trong điều trị các trường hợp thoái hoá khớp, nhiễm khuẩn khớp, tổn thương dây chằng, sụn chêm, cắt bỏ màng hoạt dịch… Các kỹ thuật thay khớp háng, khớp gối, thay đĩa đệm nhân tạo, chỉnh hình cột sống ngày càng trở nên phổ biến.
Cách dự phòng bệnh hiệu quả: Bệnh nguy hiểm nhưng có thể phòng tránh một cách có hiệu quả ở mọi lứa tuổi:
• Chế độ ăn uống lành mạnh và nên bổ sung các khoáng chất như canxi, vitamin D, acid folic.
• Trẻ sơ sinh tốt nhất là nên được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
• Trẻ em cần có tư thế học tập đúng, không mang vác nặng, tránh chấn thương, tai nạn, và nên uống nhiều sữa,
• Nên vận động và tắm nắng 30 phút mỗi ngày.
• Người lớn nên tránh mang vác, lao động nặng ở tư thế xấu.
• Khi có các triệu chứng đau xương, cơ, khớp hay hạn chế khả năng vận động cần đến ngay bác sĩ chuyên khoa để khám bệnh, không nên cố chịu đựng để đến khi bệnh nặng mới đi điều trị.
Bệnh lý cơ xương khớp là bệnh lý mạn tính nên người bệnh cần xác định tâm lý điều trị lâu dài và tuân thủ chỉ dẫn của bác sĩ. Khi hết thuốc cần đến tái khám để lấy đơn mới, không nên mua nhiều lần một đơn thuốc, không tự điều trị, không mua thuốc theo đơn của người khác.
Việc kết hợp các biện pháp dự phòng và có lối sống lành mạnh sẽ đảm bảo cho chúng ta có một bộ máy cơ xương khớp khỏe mạnh, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Quan trọng nhất là đừng quên thăm khám sức khỏe định kỳ như thông điệp “Tầm soát sức khỏe 151 – 1 năm hãy tầm soát sức khỏe ít nhất 1 lần” để bác sĩ có thể phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh hoặc các bất thường khác và xử lý kịp thời, phòng tránh các biến chứng của bệnh.
Theo thông tin của Bộ Y tế, tại Việt Nam, cứ 100 trường hợp tử vong thì có 77 người chết do các BKLN. Mặc dù nguy hiểm, nhưng các BKLN có thể được phòng chống hiệu quả thông qua kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ. Đó là lý do Davipharm (https://davipharm.info/vi/), thành viên của tập đoàn Adamed Pharma S.A- Ba Lan, là nhà sản xuất thuốc trong nước đầu tiên trở thành đối tác của Bộ Y tế trong công tác phòng ngừa, phát hiện sớm và điều trị các bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam thông qua chương trình hợp tác dài hạn “Chăm Sóc Sức Khỏe Việt”, bắt đầu từ năm 2021 và tiếp tục thành công vào năm 2022. Tìm hiểu thêm tại https://www.facebook.com/ChamSocSucKhoeVietBKLN |
Nguồn: Dự án Chăm Sóc Sức Khỏe Việt